Thứ Ba, 29/04/2025
Tìm kiếm
Ngày: 30/04/2024 | 10978
Lần đầu tiên, PGS. TS. Nguyễn Đình Tứ và cộng sự Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã đưa ra một bức tranh tổng thể về đa dạng sinh học của quần xã động vật đáy không xương sống cỡ trung bình và tuyến trùng ở các hệ sinh thái san hô, cỏ biển tại Côn Đảo và Đảo Thổ Chu trong một nhiệm vụ hợp tác quốc tế. Trong quá trình điều tra nghiên cứu, các nhà khoa học đã công bố 05 loài mới cho khoa học và 01 ghi nhận mới cho khu vực nghiên cứu.
Đa dạng sinh học quần xã động vật đáy
Ngày nay, trên thế giới có 58 loài cỏ biển tuy phân bố hẹp trên 600.000 km2 nhưng lại có vai trò quan trọng giúp ổn định nền đáy, làm giảm tác động của sông và dòng chảy, tăng lắng đọng trầm tích, là nơi cứ trú và cung cấp thức ăn cho các loài động thực vật biển. Trong những năm gần đây, các nghiên cứu về động vật đáy không xương sống cỡ trung bình ở hệ sinh thái cỏ biển đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nhằm đưa ra bức tranh tổng thể về cấu trúc và chức năng của nhóm động vật đáy này.
Tại Việt Nam, nghiên cứu sự đa dạng sinh học động vật đáy không xương sống cỡ trung bình và tuyến trùng sống tự do ở các hệ sinh thái rừng ngập mặn, vùng cửa sông và biển ven bờ ở các tỉnh phía Bắc đã và đang đượcquan tâm nghiên cứu. Một số khu vực đất ngập nước, rừng ngập mặn và vùng biển ven bờ dọc theo chiều dài đất nước được các nhà khoa học điều tra, nghiên cứu bước đầu về mức độ đa dạng sinh học quần xã.
Khu vực ven bờ tại Côn Đảo và Đảo Thổ Chu được đánh giá là nơi có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng. Đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài động thực vật, trong đó có nhóm động vật đáy không xương sống. Do đó, cần thiết có những nghiên cứu, đánh giá sự đa dạng sinh học của quần xã động vật đáy không xương sống cỡ trung bình, đặc biệt là tuyến trùng ở các hệ sinh thái tại đây nhằm cung cấp những luận cứ khoa học, đóng góp giá trị to lớn trong sự đa dạng về nguồn gen sinh vật tại khu vực này.
Nghiên cứu và ghi nhận mới
Nhằm xây dựng dữ liệu đa dạng sinh học về nhóm động vật đáy không xương sống cỡ trung bình, đặc biệt là nhóm tuyến trùng sống tự do tại các hệ sinh thái khác nhau (cỏ biển, san hô…) ở khu vực ven bờ tại Côn Đảo và Đảo Thổ Chu, nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Nguyễn Đình Tứ đã phối hợp với nhóm nghiên cứu Viện Hải dương học Shirshov, Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga tiến hành đề xuất và được Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phê duyệt thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về: “Nghiên cứu đa dạng sinh học tuyến trùng sống tự do và nhóm động vật đáy không xương sống cỡ trung bình khác tại Côn Đảo và Đảo Thổ Chu ở phía nam Việt Nam” (mã số: QTRU01.11/21-22).
Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã xác định, tuyến trùng là nhóm chiếm tỉ lệ gần như tuyệt đối tới hơn 97% tổng số lượng cá thể tại khu vực nghiên cứu, theo sau là nhóm giáp xác chân chèo (Harpacticoids) và ít nhất là nhóm kynorhyncha. Tại Côn Đảo, số lượng cá thể dao động từ 570 ± 23 đến 1344 ± 420 trong khi tại Đảo Thổ Chu, số lượng cá thể dao động từ 703 ± 597 đến 549 ± 207. Tại Côn Đảo, nhóm nghiên cứu đã định loại được 67 loài tuyến trùng thuộc 26 họ trong 7 bộ. Trong đó, loài Cyatholaimus sp.1 chiếm tỉ lệ cao nhất (20,04%), tiếp theo là loài Prochromadorella sp.1 (15,45%). Còn lại các loài khác chiếm từ 0,02 đến 6,04%. Họ Chromadoridae có số lượng cá thể nhiều nhất (28,23%), tiếp theo là họ Cyatholaimidae (22,39%), họ Draconematidae (8,32%) và thấp nhất là các họ Ceranomatidae, Enoplidae và Siphonolaimidae (1%). Tại Thổ Chu, đã ghi nhận được 100 loài/dạng loài tuyến trùng, 81 giống thuộc 29 họ và 6 bộ. Trong đó, bộ Chromadorida Filipjev, 1929 có số lượng giống nhiều nhất (40 giống), tiếp theo là bộ Monhysterida Filipjev, 1929 (23 giống), bộ Enoplida Filipjev, 1929 có số lượng giống nhiều nhất (17 giống) và thấp nhất là bộ Dorylaimida Pearse, 1929 (1 giống).
Ngoài ra, các nhà khoa học đã công bố 05 loài mới cho khoa học và 01 ghi nhận mới cho khu vực nghiên cứu (Corononema vulgaris Nguyen, T.X.P., et al., 2023; Hofmaenneria coralis Nguyen, T.X.P., et al., 2023; Onyx vulgaris Gagarin, V.G., & Nguyen, D.T., 2023; Desmodora coralis Gagarin, V.G., & Nguyen, D.T., 2023; Metachromadora (Bradylaimus) tenuis Gagarin, V.G., & Nguyen, D.T., 2023; Spirinia laevioides (Gerlach, 1963) Gagarin, V.G., & Nguyen, D.T., 2023). Nhiệm vụ đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam xếp loại xuất sắc với 02 bài báo quốc tế thuộc hệ thống SCIE, 02 bài thuộc danh mục ISI.
PGS. TS. Nguyễn Đình Tứ cho biết: Nghiên cứu đã thành công bước đầu trong xây dựng bức tranh tổng thể về sự đa dạng sinh học quần xã động vật đáy không xương sống cỡ trung bình và tuyến trùng sống tự do ở các hệ sinh thái tại khu vực nghiên cứu. Dữ liệu phân tử của gen COI đã được thiết lập cho các loài tuyến trùng biển sống tự do tại đây. Nhóm nghiên cứu đã giải trình tự thành công phân đoạn gen I3-M11 của gen COI đối với 45 mẫu tuyến trùng thuộc 35 loài/ dạng loài. Gen COI cho thấy sự sai khác lớn ở cấp độ nucleotit và 100% khoảng cách di truyền cùng loài dựa trên COI cho kết quả nhỏ hơn 0,05. Từ kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học đã khẳng định đánh giá chất lượng môi trường nước dựa vào các sinh vật chỉ thị tại các khu vực đảo, quần đảo xa đất liền là khả thi và cần được nghiên cứu tiếp.
Thông tin về chủ nhiệm:
PGS. TS. Nguyễn Đình Tứ là tác giả và đồng tác giả của 90 bài báo khoa học, trong đó có 40 bài trên các tạp chí quốc tế thuộc danh mục SCI/SCIE/Scopus, tác giả và đồng tác giả của 02 sách chuyên khảo và 02 sách tham khảo. PGS đã và đang chủ nhiệm 05 đề tài/nhiệm vụ nghiên cứu, trong đó có 02 nhiệm vụ cấp Nhà nước, 02 đề tài cấp Viện Hàn lâm, 01 đề tài cấp Bộ, hướng dẫn 01 nghiên cứu sinh, 10 học viên cao học về chuyên ngành tuyến trùng.
Tin: Chu Thị Ngân
Copyright © 2025 ISDI-VAST. All rights reserved.